QUẢNG TRỊ, THÀNH PHỐ XƯA CHỈ CÒN NGHE TÊN CŨ
Gởi Điệp yêu dấu,
“ Thành phố thân yêu
vừa chiếm lại đêm qua bằng máu”.
Thành phố thân yêu vừa chiếm lại
đêm qua bằng máu ấy chính là Quảng Trị trong mùa hè lửa đỏ 1972. Máu của các
chiến sĩ Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân, Bộ Binh, Thiết Giáp thật sự
đã đổ ra trên những vùng đất La Vang, Thạch Hãn, Trí Bưu, Đông Hà để giành lại
những vùng đất đã đổ nát không còn nhà còn cửa, không còn cây còn cối, không
còn đường còn phố, không còn cả một con sông vì bom đạn, đất cát đã lấp đầy.
Nói chi đến con người. Con người Quảng Trị đã phân tán, lưu lạc tứ xứ không
phải chỉ từ mùa hè đỏ lửa mà từ những biến cố trên quê hương trước đây.
<!>
Quảng Trị sau 20 tháng 7 năm 1954
đã banh da, xẻ thịt của mình làm đôi trong nỗi đau chia cắt của cả đất nước.
Xưa sông Gianh đã rền tiếng sóng oán hờn chia cắt Bắc Nam của thời Trịnh Nguyễn
phân tranh. Bến Hải ngày đó đã là tiếng kêu thống thiết của nỗi đau phân chia.
Bên kia giòng sông, lá cờ đỏ màu máu phủ cả đất nước miền Bắc. Cả một dãy xóm
làng quạnh hiu không một bóng người lai vãng. Bên kia là Gio Linh, Cửa Tùng với
những hàng dương đơn độc trên những trảng cát dài mịt mùng sương khói, hay là
không khí mù mịt, thù hận bưng bít.
Năm 1958-59, trường Trung học Nguyễn Hoàng của
Quảng Trị chưa có được một lớp Đệ Tam, sĩ tử đệ nhị cấp Quảng Trị phải vào Huế
tiếp tục tìm chút chữ nghĩa y như học trò trong Quảng ra thi. Ngày ấy, phải nói
là cận đại mà học trò đến trường vẫn còn phải đi chân đất, lội bộ từ Sải, Hải
Lăng, Long Hưng… đến sân vận động Quảng Trị, nơi ngôi trường công lập vừa mới
xây cất xong. Mùa đông gió lạnh như cắt, mưa dầm dề, đường sá lầy lội; nhìn
những em học sinh mặc những bộ áo quần màu sắc tăm tối, chân đất, tơi lá đến
trường, lòng thầy cô giáo không khỏi bùi ngùi. Mùa hè, cơn gió nam Lào nóng
bỏng thổi về đất Quảng Trị. Gió đem theo cát bụi mịt mù thổi rào rào trên những
mái nhà tôn. Những cây đèn sáp trên bàn thờ thắp dang dở đổ gục xuống. Con
người khô khốc, trăn trở trên những tấm phản gỗ tẩm mồ hôi. Cơn gió Lào Quảng
Trị đến đúng hẹn không bao giờ trễ, và con người ở lại chịu đựng không có một
chỗ nào để trốn tránh.
Quảng Trị quả có một sắc thái riêng, đó là một
thành phố nghèo nàn, khốn khổ nhất trong các thành phố nghèo của đất nước. Một
cái chợ, hai ba dãy phố. Buổi chiều đi dăm bước đã về chốn cũ. Ngày ấy, con
đường Trần Hưng Đạo là một đại lộ, có hai nhà sách nhỏ nằm gần như đối diện, đó
là nhà sách Lương Giang và Sáng Tạo mà mỗi buổi chiều các bạn công chức xa nhà
thường đến tìm mua mấy tờ báo hay nói vài câu vẩn vơ với cô hàng sách. Hầu hết
những căn nhà, ngôi phố đều dược xây dựng từ hồi Pháp thuộc. Dân mới đến định
cư hoặc trở về sau chiến tranh thì dựng những ngôi nhà vách gỗ, mái tôn làm cho
Quảng Trị những ngày hè như hun thêm sức nóng. Dân cư phần lớn là công chức,
học sinh và những gia đình buôn bán nhỏ. Hội An còn có chùa Cầu, Bồng Sơn còn
có bóng dừa, riêng Quảng Trị không có sắc thái riêng, nó giống như một quận lỵ
nào đó mà ta thường thấy ở miền nam. Thạch Hãn, mồ hôi của đá, cái tên nghe qua
đã khiến cho ta nghĩ tới một miền đất cằn khô, nắng cháy.
Năm 1972, Quảng Trị là mảnh đất địa
đầu, chiến tuyến đắm mình dưới bom đạn tơi bời. Quảng Trị đã bỏ ruộng vườn nhà
cửa, chạy dạt về phương Nam, và xương máu đã bỏ lại trên đường số 1, quốc lộ
huyết mạch mang cái tên lịch sử Đại Lộ Kinh Hoàng. Từ một vùng phi chiến, Gio
Linh, Đông Hà đã trở thành nơi mỗi thước đất là một thước kim loại của vũ khí,
là nơi thấm máu của những người giữ đất và giành đất. Vùng phi chiến cũng là
nơi trao trả tù binh lúc ngưng tiếng súng, với những đôi mắt nhìn nhau thù hận
không nguôi. Quảng Trị chịu đau trước nhất trong cái đau của dân tộc, thịt da
bị vằm nát, bị chà đi xát lại. Những thành quách dày hơn hai thước, kết nối
bằng hàng triệu viên gạch đã bị san bằng. “Không có một viên gạch nào còn
nguyên vẹn.!” Đó là cổ thành Quảng Trị sau những cơn ác chiến, đó là cái tiếng
tăm hung dữ mà người ta đã biết đến qua những bản tin chiến sự, qua những trang
cáo phó và còn ở lại trong lòng ngýời quả phụ, cô nhi mà thân xác của ngýời
thân ðã vụn vữa, chôn vùi trong gạch đá ngổn ngang.
Khi ngọn cờ vàng đã được cắm lại ở
một nơi nào đó trên đống gạch nát Cổ Thành thì thành phố Quảng Trị thực sự đã bị
xóa mất. Nhìn vào bức không ảnh, tôi không còn nhận ra đâu là tường thành, đâu
là bờ hồ, đâu là con đường Trần Hưng Đạo. Dòng sông Thạch Hãn chỉ còn lại một
vết mờ loang lổ! Gạch đá chen chúc nhau tạo nên những vết tối, làm nên những
chiều sâu trên bức không ảnh. Tôi tìm lại đâu đó những chiều lang thang qua
Nhan Biều, những sáng về thăm Sắc Tứ. Tôi tìm lại đâu đó tuổi thơ leo qua bờ
thành đi hái cây lồng đèn và hái bông ngũ sắc. Tôi tìm lại đâu đó cái tháp
chuông Trí Bưu giăng đèn đêm Chúa ra đời, tìm đâu thấy ngôi chùa tỉnh nhìn ra
lưu vực sông Thạch Hãn rộng mênh mông với những đêm phóng đăng rực rỡ ngày nào.
Quảng Trị đâu còn có giây tơ trời bay
mùa thu giăng mắc, Quảng Trị đâu với những giây tơ hồng mọc trên cửa ngõ nhà
ai.
Từ đó không ai về đất Quảng Trị
nữa. Đó không còn là mảnh đất Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân của Chúa
Nguyễn Hoàng xưa kia. Người ta ngậm ngùi nhìn về quê cũ, nơi đó chẳng còn gì mà
về, chẳng còn gì mà trở lại, chẳng còn ai mà thăm viếng. Phải chăng nơi đó chỉ
còn mồ mả cha ông, có nơi bom đạn để thoát, mà cũng có nơi mả lạc mồ xiêu. Rồi
đâu cũng là quê hương. Người ta gặp người Quảng Trị ở Huế, Đà Nẵng, Nha Trang,
Saigon. Tiếng nói mới nghe qua không thể nhầm lẫn, nhưng người Quảng Trị đã đi
quá xa vùng quê hương đổ nát.
Tháng 5-1975, đất Quảng Trị đã
thành đất quê hương của lãnh tụ. Trên quê hương đổ nát đó, người ta đã gầy dựng
lại được gì ngoài một bến xe bụi bặm, vài con kinh thủy lợi bất chấp địa hình
địa vật chạy ngang dọc trên thành phố cũ. Lần này Quảng Trị đã mất đất lại mất
tên: Quảng Trị biến thành một quận lỵ của Bình Trị Thiên, cái tên tỉnh nổi danh
một thời vì đôi dép lốp.
Sau những năm tháng tù đày, từ miền
Bắc tôi trở về miền Nam, rồi ra Trung để làm một chuyến hành hương về chốn cũ.
Huế của tôi như một nàng tôn nữ gá duyên cùng một tên lục lâm thảo khấu, phàm
phu tục tử. Tuy nhan sắc nàng đã tàn phai trong cơn nắng bụi, nhưng giòng tóc
Hương Giang vẫn còn đó, linh hồn của của tiếng chuông chiều Linh Mụ vẫn còn đó;
Huế vẫn còn đền đài lăng miếu; còn Ngọ Môn, Kỳ Đài. Tôi vẫn còn tìm lại được
những nhịp cầu Trường Tiền, Bạch Hổ, Đông Ba, Gia Hội ... và những mái trường Đồng Khánh, Khải Định
ngày nào.
Nhưng tôi tìm lại Quảng Trị quen
thân của tôi ở đâu? Con đường bờ sông Thạch Hãn với những hàng phượng xanh. Nhà
ga, trường học, những cửa Tiền cửa Hậu, những cửa Bắc cửa Nam ? Quảng Trị giờ
đây là một quận lỵ kinh tế mới với hàng trăm căn nhà tôn mới dược dựng lên. Qua
quán nước đường, treo lèo tèo dăm cái bánh ú, mấy cái bánh tráng bám bụi đường,
trên kệ gỗ vài chai nước ngọt quốc doanh pha màu phẩm đỏ hồng, những bao thuốc
lá Mai, Điện Biên vàng ố.
Từ ngã ba Long Hưng, dân Quảng Trị
trở lại cũng phải hỏi thăm đường. Không ai nghĩ rằng đây là đất Quảng Trị nữa.
Chỉ còn những con đường bụi lầm ngang dọc giữa đám nhà tôn. Chỉ còn những con
người lam lũ lội bộ. Vài chiếc xe đạp cọc cạch vội vã chạy ngang. Những đứa trẻ
lại trở về thời quá khứ ba mươi năm, lại bụng ỏng da chì, lại đầu trần chân
đất!
Có phải đây là Quảng Trị của em
không ? Hay đây chỉ là một thị trấn nghèo nàn của thời kỳ hoang dã. Không thấy
một đóa hoa, không nghe một tiếng nhạc, còn nói chi nghe được một tiếng cười.
Tôi đạp xe trên con đường đê bên con kinh đào chưa có nước, chưa bao giờ cảm
thấy thấm thía như hôm nay cái nghĩa của thương hải tang điền. Giờ đây, đứng ở
Đạo Đầu có thể nhìn thấy La Vang, như bên này nhìn qua bên kia một sân vận
động. Quảng Trị đã nằm xuống và không bao giờ vươn mình trở dậy được nữa. Quảng
Trị đã đau đớn trước chúng ta, mất mát trước chúng ta, ly hương trước chúng ta,
bị tước đoạt tàn khốc hơn chúng ta.
Những người Quảng Trị đã nhiều lần
bỏ miền đất cát ấy để ra đi, và đã không được dừng lại để chờ đợi một ngày trở
về. Sau tháng năm 1975, người Quảng Trị lại cùng với dân tộc một lần nữa xót xa
làm người lưu vong, phân tán trên những mảnh đất xa quê hương, cội nguồn. Quảng
Trị thật đã xa rồi .
Quảng Trị, mảnh đất nhọc nhằn, đau đớn nhất hơn bất cứ
phần đất nào trên quê hương. Ngày nay, cái tên vẫn còn đó, nhưng tất cả những
gì của một thời xưa cũ đã biến mất, có còn chăng là những hình ảnh chúng ta còn
giữ lại, mang theo, tản mác khắp bốn phương trời lận đận.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét